Không kết hôn nhưng sống chung như vợ chồng thì có phạm luật không?

Hiện nay, nhiều cặp đôi trẻ có xu hướng sống riêng bên ngoài như vợ chồng nhưng lại không đăng ký kết hôn. Việc này có phải là một hành vi trái với những quy định của pháp luật về Luật Hôn nhân và gia đình hay không? Và sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn thì mối quan này có được xem là có giá trị pháp lý hay không? Mời bạn đọc cùng tìm câu trả lời cho vấn đề này trong bài viết sau đây, hãy cùng với luật sư Cần Thơ Luật Khôi Luân tìm hiểu nhé.

Hiện nay, việc chỉ sống chung mà không đăng ký kết hôn dường như đang trở thành trào lưu trong một bộ phận không nhỏ giới trẻ.  (Ảnh minh hoạ)

Hiện nay, việc chỉ sống chung mà không đăng ký kết hôn dường như đang trở thành trào lưu trong một bộ phận không nhỏ giới trẻ.  (Ảnh minh hoạ)

Sống chung không kết hôn sẽ không có giá trị pháp lý?

Theo quy định tại khoản b Điều 2 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP, được coi là nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;

- Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận;

- Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;

- Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.

Đồng thời, theo quy định tại Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (viết tắt là Luật HN&GĐ):

Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật HN&GĐ 2014 có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết

Theo đó, căn cứ quy định của pháp luật, việc xác định giá trị pháp lý khi nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo 03 thời điểm như sau:

1/ Nam nữ chung sống như vợ chồng không kết hôn trước ngày 03/01/1987: Theo khoản 2 Điều 44 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP, quan hệ hôn nhân của trường hợp này được công nhận kể từ ngày các bên xác lập quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng. Khi đó, nam nữ được khuyến khích và tạo điều kiện đăng ký kết hôn.

2/ Nam và nữ chung sống như vợ chồng không kết hôn từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001

Nam nữ sống chung với nhau trong trường hợp này mà đủ điều kiện kết hôn nhưng chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng thì họ phải có nghĩa vụ đăng ký kết hôn kể từ ngày 01/01/2001 đến hết ngày 01/01/2003 (theo điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội).

Sau ngày 01/01/2003 nếu nam nữ chưa đăng ký kết hôn thì không được công nhận là vợ chồng.

3/ Nam và nữ chung sống như vợ chồng không kết hôn sau ngày 01/01/2003:

Trong thời gian này, bắt buộc nam, nữ phải đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền thì mới có giá trị pháp lý. (Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 và Điều 9 Luật HN&GĐ năm 2014).

Hiện nay, quan hệ hôn nhân của nam nữ chỉ được pháp luật công nhận khi đáp ứng điều kiện về đăng ký kết hôn và bắt buộc phải thực hiện tại cơ quan có thẩm quyền tuân theo quy định của Luật HN&GĐ 2014 về:

- Điều kiện đăng ký kết hôn: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; do nam nữ tự nguyện quyết định; không bị mất năng lực hành vi dân sự; không thuộc trường hợp bị cấm kết hôn… theo Điều 8 Luật HN&GĐ.

- Thủ tục đăng ký kết hôn: Hai bên nam nữ muốn đăng ký kết hôn thì phải đáp ứng điều kiện nêu trên, chuẩn bị đầy đủ giấy tờ và đến cơ quan có thẩm quyền thực hiện.

Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân

Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân

Bị phạt nặng nếu sống chung như vợ chồng mà không kết hôn

Việc đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm (căn cứ điểm c khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ 2014).

Theo đó, tại Điều 48 Nghị định 110 năm 2013 sửa đổi bởi khoản 35 Điều 1 Nghị định 67 năm 2015, sẽ phạt tiền từ 01 - 03 triệu đồng với các hành vi sau đây:

- Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

- Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

- Chung sống như vợ chồng giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;

- Chung sống như vợ chồng giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.

Tuy nhiên, từ 01/9/2020 khi Nghị định số 82/2020/NĐ-CP chính thức có hiệu lực thì mức phạt các hành vi này đã tăng lên từ 03 - 05 triệu đồng (theo khoản 1 Điều 59 Nghị định 82).

Riêng việc chung sống như vợ chồng với người có cùng dòng máu về trực hệ thì sẽ bị phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng.

nguồn: luatvietnam.vn